Vị trí trong cấu trúc Hiến pháp của Cộng hòa liên bang Đức Tổng_thống_Đức

Sơ lược lịch sử

Vị trí yếu kém của Tổng thống Đức, nhìn thấy trước tiên ở việc bắt buộc phải có chữ ký đối chứng và ở các quyền hạn chính trị thực tế hạn hẹp, là một phản ứng rút ra từ những kinh nghiệm của Cộng hòa Weimar. Trong các cuộc họp của Hội đồng quốc hội hầu như tất cả các đại biểu tham gia đều nhất trí là không để cho Tổng thống có một vị trí cao trong hệ thống chính trị như trong thời kỳ của Tổng thống đế chế (Reichspräsident) - thí dụ như Paul von Hindenburg. Đặc biệt, quyền ban hành pháp lệnh trong trường hợp khẩn cấp theo chương 48 của Hiến pháp Weimar (tức là quyền trong trường hợp khẩn cấp có thể dùng các chỉ thị của Tổng thống để điều hành công việc quốc gia không phải thông qua quốc hội đế chế - Reichstag) và quyền của Tổng thống có thể tự chỉ định Thủ tướng đế chế (Reichskanzler) theo quyết định chính trị của bản thân (chứ không phải chỉ hoàn thành về mặt hình thức sự lựa chọn của Quốc hội liên bang) là hai quyền được cho là có một phần trách nhiệm trong việc dẫn đến cuộc khủng hoảng chính trị của Cộng hòa Weimar bắt đầu từ năm 1930 với các Thủ tướng Heinrich Brüning, Franz von PappenKurt von Schleicher, cuối cùng đi đến chế độ độc tài dưới quyền của Adolf Hitler. Mặc dù vậy, trong thời kỳ bắt đầu Cộng hòa Weimar, quyền ban hành pháp lệnh trong trường hợp khẩn cấp đã được Friedrich Ebert sử dụng theo một phương hướng được đa số cho rằng là tốt.

Việc lấy đi hai quyền hạn đó là một sự tước quyền lực rõ rệt đối với chức vụ Tổng thống. Quyền ban hành pháp lệnh trong trường hợp khẩn cấp của hành pháp không còn trong Cộng hòa liên bang nữa, ngay trong trường hợp khẩn cấp pháp chế vẫn còn có sự kiểm soát của Hội đồng liên bang; việc chỉ định và bãi nhiệm Thủ tướng chủ yếu nằm trong tay của Quốc hội liên bang hay của Thủ tướng liên bang.

Song song với việc giảm thiểu quyền hạn của chức vụ này, phương cách bầu cử Tổng thống cũng được thay đổi: Nếu như Tổng thống đế chế được bầu trực tiếp từ nhân dân (năm 19251930) thì Tổng thống liên bang được bầu từ Hội nghị liên bang, được tổ chức chỉ dành cho mục đích này. Qua đó việc hợp pháp hóa (Legitimation) một cách dân chủ của Tổng thống liên bang trở thành gián tiếp hơn. Ông không phải là một nguyên thủ quốc gia được bầu trực tiếp mà được lựa chọn bởi một ủy ban bầu cử (ủy ban mà về phía mình được hợp pháp hóa một cách dân chủ). Việc từ chối tiếp tục bầu cử trực tiếp Tổng thống liên bang được giải thích là nếu không thì sẽ không có tương quan giữa một hợp pháp hóa dân chủ cao độ (ngoài Quốc hội liên bang ra Tổng thống sẽ là cơ quan hiến pháp duy nhất được bầu trực tiếp) và quyền lực chính trị hạn chế.

Diễn văn chính trị

Từ vị trí này Tổng thống liên bang chỉ có thể gây tác động chính trị chủ yếu qua các diễn văn tiếp tục hay mở đầu các tranh luận trong xã hội. Không như các chính trị gia đứng đầu khác Tổng thống độc lập với sự việc chính trị hằng ngày và vì thế tự do hơn so với các chính trị gia khác trong việc lựa chọn đề tài và thời điểm cho các phát biểu của ông, chỉ phải bắt buộc là đứng bên trên đảng phái (ngoại trừ Gustav Heinemann tất cả các Tổng thống từ trước đến nay đều tạm ngưng tham gia đảng phái trong thời gian đương chức).

Việc các diễn văn này được cho phép về mặt hiến pháp không cần phải có "chữ ký đối xác" là một việc đang được tranh cãi bởi vì một bài diễn văn với tác động thực tế của nó có thể có ảnh hưởng chính trị mạnh hơn là một hành động mang tính chất hình thức.

Trung lập đối với các đảng phái chính trị

Người giữ chức vụ này bao giờ cũng lâm vào một tình thế khó xử trong lúc thực thi chức trách của mình vì một mặt ông phải làm chính trị (hay ít nhất là có những phát biểu về chính trị) mặt khác có nhiệm vụ trung lập đối với các đảng phái. Các Tổng thống liên bang thường hay nói một cách trừu tượng về các đề tài không có thể hiểu theo hướng của một đảng phái chính trị nào (như các chỉ trích về toàn cầu hóa của ông Rau) hay công kích tất cả các đảng nói chung (trích dẫn của ông Weizsäcker về ham mê quyền lực và lãng quên quyền lực của các đảng).

Các Tổng thống liên bang, theo thông lệ, thường là những chính trị gia có công lao, bỏ công sức để tiến lên trong đảng để sau này họ sẽ bầu ông trong Hội nghị liên bang. Đó là một điều thực tế làm cơ sở cho các nhà phê bình hoài nghi tính trung lập và độc lập đối với các đảng phái của Tổng thống liên bang.

Tổng thống đương nhiệm, Horst Köhler, là người đầu tiên giữ chức vụ này mà các chức trách trước đây của ông không ở trong nước Đức và vì thế thực sự là đi vào chính trị Đức từ bên ngoài. Những người ủng hộ ông cho rằng vì vậy mà ông có lợi thế là không phải "mài tròn" các bài diễn văn của mình như các chính trị gia khác, hơn thế nữa, chúng thẳng thắn và đặt thẳng vấn đề. Ngoài ra trong thời gian đương nhiệm ông đã từng nói đến nhiều đề tài mang tính chất thời sự. Các nhà phê bình cho rằng vì vậy mà ông đã xâm phạm vào tính đứng bên trên các đảng phái của chức vụ và cũng đã xâm phạm vào quy tắc không can thiệp vào các vụ việc chính trị hằng ngày.

Một nguyên tắc cho đến nay không được nói ra và cũng không được viết ra là một cựu Tổng thống sẽ không theo đuổi một chức vụ chính trị nào nữa mà nhiều nhất là chỉ tham gia vào giới công khai như "một người đáng kính trọng của quốc gia".

Đại diện

Đại diện cho Tổng thống liên bang là Chủ tịch hội đồng liên bang (Bundesratspräsident), không phụ thuộc vào việc Tổng thống liên bang chỉ vắng mặt một thời gian hay không có khả năng thực thi chức trách. Trên thực tế thường thì quyền đại diện chỉ được áp dụng cho một phần của quyền hạn Tổng thống liên bang, như khi Tổng thống liên bang đang đi thăm chính thức một quốc gia và như thế là đang thực hiện các nhiệm vụ về ngoại giao của ông, mặt khác một đạo luật cần phải được ký tên. Trong trường hợp như vậy đạo luật theo thông lệ được đại diện của Tổng thống liên bang ký tên.

Liên quan